Cảm nhận sự hy sinh của người lính Tây Tiến

Bài làm

       Những bức tượng đài về con người Việt Nam trong kháng chiến không chỉ được viết bằng những trang sử hào hùng mà còn bằng những áng thơ văn tuyệt đẹp. Họ khổ đau nhưng vẫn ngời sáng sức mạnh và niềm tin. Dù có mất mát đau thương nhưng điều cuối cùng ở lại là sự kiên định với lí tưởng và hi sinh vì cuộc sống. Sự hi sinh của những người lính đã sống vì Tổ quốc đã được Quang Dũng tái hiện chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”:

  • “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
  • Gục lên súng mũ bỏ quên đời
  • Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Và:

  • “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, có nhiệm vụ cùng quân đội Lào bảo vệ vùng biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng viết về người lính Tây Tiến không chỉ bằng con mắt quan sát mà còn bằng chính những trải nghiệm thực tế bởi ông cũng là một người lính Tây Tiến năm xưa. Cuối năm 1948, ông phải rời quân đoàn đi làm nhiệm vụ khác, nỗi nhớ về Tây Tiến và núi rừng, con người Tây Bắc đã giúp ông viết lên bài thơ. Bài thơ được viết lên bằng nỗi nhớ, được họa bằng hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và hoang sơ, hiểm trở và hình ảnh con người thành trung tâm với những nét hào hoa, lãng mạn mà thật cao đẹp. Đặc biệt, tầm vóc của con người được khắc họa đẹp nhất, ấn tượng nhất qua những hi sinh, mất mát.

Gian nan bao giờ cũng được xem là ngọn lửa thử vàng. Trước những dãi dầu thân xác trong dằng dặc thời gian là hình ảnh:

  • “Anh bạn dãi dầu không bước nữa
  • Gục lên súng mũ bỏ quên đời
  • Chiều chiều oai linh thác gầm thét
  • Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hai câu thơ đầu là bức họa ấn tượng về người lính. Hai tính từ “dãi dầu” đã đủ để làm hiện về bao vất vả, nhọc nhằn của những cuộc hành quân. “Không bước nữa” có thể là những giây phút hiếm hoi người lính buông mình vào giấc ngủ; nhưng cũng có thể là một thực tế đau xót là người lính đã ngã xuống và không thể bước cùng đồng đội. Sự hy sinh là có đấy và Quang Dũng không bao giờ né tránh hiện thực. Nhưng hiện thực trong mắt ông không bao giờ chỉ giản đơn và tẻ nhạt. Một loạt các từ mang tính chủ động: “không bước nữa”, “bỏ quên đời” làm cho câu thơ trở nên gân guốc, rắn rỏi; giọng thơ ngang tàng; khó khăn trở nên nhẹ tênh và con người hiện lên với tâm thế chủ động, ung dung trước những khó khăn gian khổ, thậm chí là hi sinh mất mát. Sau này, ta cũng được gặp giọng điệu ngang tàng ấy trong những câu thơ rất lính của Phạm Tiến Duật: “Không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo” (“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”). “Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đó cũng là thời gian của những cuộc hành quân Tây Tiến. Vì thế mà hai câu thơ miêu tả cái thâm u, bí ẩn của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao lớn, mạnh mẽ.

Sau đó, Quang Dũng còn một lần nữa nhắc tới sự hi sinh của những người lính:

  • Rải rác biên cương mồ viễn xứ
  • Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
  • Áo bào thay chiếu anh về đất
  • Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Câu thơ là một trong những bức tượng đài bi tráng nhất của người lính Việt Nam. Nơi viễn xứ, những con người ấy chỉ còn là áo vải mong manh. Cái bi, cái mất mát trong chiến tranh là chẳng thể nào chối bỏ. Vì thế, Nguyễn Duy từng đúc kết một cách đau xót: “Kì quan nào chẳng hắt bóng xót xa” (“Đứng trước tượng đài Kiev). Nhưng bi mà không hề lụy. Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.

Một bài thơ hay không bao giờ là sự giản đơn, tĩnh tại mà luôn có sự vận động trong chính bản thân chủ thể của nó. Thiên nhiên trong hai đoạn thơ đi từ dữ dội đến hào hùng, thiêng hóa, từ hình ảnh của những khó khăn thử thách thành nền để tôn vinh và thiêng hóa con người. Người lính từ đối đầu để chinh phục thiên nhiên, vượt qua thử thách đến hòa hợp để làm trung tâm trong bức tranh thiên nhiên. Bút pháp thơ đều từ tả thực kết hợp với bút pháp sử thi, hào hùng, cảm hứng bi tráng nhưng ở mỗi đoạn lại có những thay đổi và độc đáo riêng. Những câu thơ đem cho chúng ta có một phong vị rất riêng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà có khi vẫn mới lạ một cách đáng ngạc nhiên.

     Những câu thơ của Quang Dũng không chỉ đơn giản là câu chữ mà như là những khúc tráng ca hào hùng, là những bức tượng đài trường tồn về những con người bất tử mà dẫu cho lịch sử đã sang trang, những chiến tuyến đã hạ xuống nhưng nó vẫn không thôi làm ám ảnh và xúc động cho bạn đọc nhiều thế hệ.


Bài đăng

Cách trả lời thông minh khi bị chửi bị cà khịa

Thuyết Trình Về Gia Đình

Thuyết Minh Về Biển Mỹ Khê Quảng Ngãi

Ngữ Văn 6 Bài 6 Đọc: Gió lạnh đầu mùa (Thạch Lam) - Chân trời sáng tạo

Ngữ văn 6 - Bài 9: Tóm tắt bằng sơ đồ nội dung của một văn bản đơn giản - Kết nối tri thức

Ngữ văn 6 – Bài 10 : Trái Đất - Mẹ của muôn loài - Chân trời sáng tạo

Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Huế

Ngữ Văn 6 Bài 6 Đọc: Tuổi thơ tôi (Nguyễn Nhật Ánh) - Chân trời sáng tạo

Thuyết Trình Về Ô Nhiễm Môi Trường Nước Hiện Nay

Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính

Bài đăng phổ biến từ blog này

Ngữ Văn 6 Bài 6 Đọc: Gió lạnh đầu mùa (Thạch Lam) - Chân trời sáng tạo

Ngữ văn 6 Bài 7: Cây khế - Kết nối tri thức

Cách trả lời thông minh khi bị chửi bị cà khịa

Ngữ văn 6 Bài 7: Vua chích chòe - Kết nối tri thức

Ngữ văn 6 Bài 7: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích - Kết nối tri thức